Tác phẩm đạt Giải Khuyến khích – Giải Báo chí về xây dựng Đảng tỉnh Tây Ninh lần thứ III – năm 2023

Thứ tư - 21/02/2024 15:46 78 0
Loạt bài: Quân nhân mất tin, mất tích trong chiến tranh: Thân nhân chờ đến bao giờ.Tác giả: Đồng Viết Thắng; Nguyễn Thị Yến Nhi (Việt Đông – Hoàng Yến) – Báo Tây NinhThể loại: Báo in

Bài 3: Quốc tịch của quân nhân Lâm Văn Mạnh bao giờ mới xác định?

Trường hợp Lâm Văn Mạnh còn ít nhất 3 nhân chứng. Với sự thận trọng cần thiết, chúng tôi cho rằng đủ độ tin cậy để làm sáng tỏ thân phận người lính Lâm Văn Mạnh.

Tháng 7.2011, Báo Tây Ninh có bài viết “Chuyện một người lính đã hy sinh” nói về trường hợp người lính tên Lâm Văn Mạnh, ngã xuống trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nhưng vì nhiều nguyên nhân, chưa được công nhận liệt sĩ. Sau đó, Báo Tây Ninh tiếp tục có một số bài viết về trường hợp quân nhân Lâm Văn Mạnh.

Ông Lâm Văn Ngỡi thắp hương cho em ruột- Lâm Văn Mạnh.

Tháng 2.2020, trong chuyến thăm và làm việc tại Tây Ninh, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung phát biểu, quân nhân Lâm Văn Mạnh đủ điều kiện công nhận liệt sĩ, nhưng cho đến nay, trường hợp này vẫn chưa được giải quyết. Vướng mắc lớn nhất là chưa xác định được quốc tịch.

Tóm tắt câu chuyện

Những năm 1970, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn vô cùng khốc liệt. Lớp lớp thanh niên đã lên đường chiến đấu để giải phóng đất nước, bảo vệ quê hương.

Trong số đó có người lính trẻ Lâm Văn Mạnh, một Việt kiều ở Campuchia. Ông Mạnh ra đi khi vừa tròn 22 tuổi. Ông Lâm Văn Ngỡi, anh trai của ông Mạnh kể, vào thời điểm năm 1970, cả nhà ông đang sống tại Campuchia.

Hầu hết các anh em trong gia đình ông đều tham gia cách mạng. Theo gương cha và các anh, Lâm Văn Mạnh hăng hái lên đường đi đánh Mỹ. Cùng trong năm 1970, hai người em của ông Mạnh đều gia nhập vào đoàn quân cứu nước.

Mấy tháng sau, ông Mạnh được về thăm nhà ba ngày. Cùng về đợt này còn có hai cán bộ cấp trên để xác minh lý lịch của gia đình, xem xét kết nạp Đoàn cho chiến sĩ trẻ Lâm Văn Mạnh.

Không ngờ rằng, chuyến về thăm nhà đó là duy nhất và cuối cùng của Mạnh. Một ngày đầu tháng 6.1972, gia đình nhận được tin ông hy sinh trong một trận đánh tại Xầm Long.

Sau Hiệp định Paris năm 1973, cả nhà ông Ngỡi về Việt Nam sinh sống tại xã Tân Lập, huyện Tân Biên. Năm 1977, quân Pol Pot từ bên kia biên giới tràn sang giết hại dân ta; gia đình, họ hàng nhà ông Ngỡi bị tàn sát thảm thương, trong đó có cha và mẹ của ông.

Năm 2008, ông Ngỡi làm đơn gửi các cơ quan chức năng đề nghị xem xét trường hợp của em trai ông, quân nhân Lâm Văn Mạnh. Hành trình dài bắt đầu từ đây (xin phép không nhắc lại chi tiết).

Trước khi diễn ra kỳ họp thứ 12 HĐND tỉnh (khoá IX), cử tri xã Tân Lập, huyện Tân Biên có ý kiến, kiến nghị như sau: “Ông Lâm Văn Ngỡi (xã Tân Lập, huyện Tân Biên) tiếp tục đề nghị sớm xem xét, giải quyết việc công nhận liệt sĩ cho em ông là ông Lâm Văn Mạnh.

Qua tiếp xúc cử tri trước kỳ họp thứ 12 (khoá IX), ông Lâm Văn Ngỡi tiếp tục kiến nghị vấn đề này, đồng thời cung cấp thêm hồ sơ là lý lịch đảng viên của ông, trong đó có tên ông Lâm Văn Mạnh là em trai ông.

Trên cơ sở đó, đề nghị ngành chức năng sớm giải quyết kiến nghị này cho gia đình ông”. Tại thời điểm đó, UBND tỉnh trả lời: Ông Lâm Văn Mạnh sinh năm 1948, nguyên quán Cần Ché, Campuchia. Nơi cư trú trước khi hy sinh là Phờ Sốp, Cần Ché, Campuchia.

Ông Mạnh nhập ngũ tháng 5.1970, chức vụ, cấp bậc: Tiểu đội phó, đơn vị e207; hy sinh: 1.6.1972 tại Xầm Long, Campuchia trong trường hợp chiến đấu. Bộ CHQS tỉnh đã tiếp nhận hồ sơ của ông Lâm Văn Mạnh và đã lập hồ sơ đề nghị công nhận liệt sĩ.

Tháng 11.2015, Cục Chính sách thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam gửi trả lại hồ sơ đề nghị các cấp điều tra xác minh, kết luận quân nhân Lâm Văn Mạnh khi hy sinh là người Campuchia hay Việt Nam. Lý do, theo hồ sơ, nguyên quán và trú quán trước khi hy sinh của quân nhân Lâm Văn Mạnh ở Campuchia, nếu là người quốc tịch nước bạn, tạm thời chưa lập hồ sơ đề nghị xác nhận liệt sĩ.

Ngày 11.3.2019, đoàn công tác của Phòng Chính trị Bộ CHQS tỉnh phối hợp với các cơ quan, ban, ngành của huyện Tân Biên và xã Tân Lập gặp gỡ ông Lâm Văn Ngỡi để gia đình cung cấp những thông tin liên quan và các loại giấy tờ tuỳ thân của ông Lâm Văn Mạnh nhằm làm căn cứ chứng minh ông này là người có quốc tịch Việt Nam, nhưng gia đình không có bất kỳ giấy tờ tuỳ thân nào của ông Lâm Văn Mạnh.

Bộ CHQS tỉnh tiếp tục có văn bản đề nghị Phòng Bảo vệ an ninh, Cục Chính trị Quân khu 7, Phòng Hồ sơ Công an tỉnh và Sở Tư pháp tỉnh Tây Ninh kiểm tra hồ sơ lưu trữ, xác minh kết luận ông Lâm Văn Mạnh khi hy sinh là người Campuchia hay Việt Nam để bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị công nhận liệt sĩ đối với trường hợp ông Lâm Văn Mạnh theo đúng chỉ đạo của Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị.

Ngày 15.3.2019, Phòng Bảo vệ an ninh- Cục Chính trị Quân khu 7 có Công văn số 155/BVAN trả lời: Qua rà soát hồ sơ, tài liệu đang lưu trữ tại cơ quan, không phát hiện trường hợp có liên quan đến ông Lâm Văn Mạnh nên không có cơ sở để kết luận ông Lâm Văn Mạnh là người có quốc tịch Campuchia hay Việt Nam.

Ngày 25.3.2019, Sở Tư pháp có Công văn số 631/STP-HCTP trả lời: Trong hồ sơ không có bất kỳ giấy tờ tuỳ thân nào ông Lâm Văn Mạnh. Do vậy, Sở Tư pháp không thể trả lời và xác định quốc tịch của ông Lâm Văn Mạnh là người có quốc tịch Campuchia hay Việt Nam.

Ngày 9.4.2019, Công an tỉnh Tây Ninh có Công văn số 262/CAT-PX01 trả lời: Công an tỉnh không lưu trữ hồ sơ của ông Lâm Văn Mạnh.

Sau khi có văn bản trả lời của Sở Tư pháp, Công an tỉnh và Phòng Bảo vệ an ninh- Cục Chính trị Quân khu 7, Bộ CHQS tỉnh tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ, gửi về Phòng Chính sách- Cục Chính trị Quân khu 7 để thẩm định, xem xét giải quyết công nhận liệt sĩ đối với trường hợp ông Lâm Văn Mạnh.

Hồ sơ còn lại thể hiện, ngày 13.1.2016, trong một văn bản gửi Phòng Chính trị- Bộ CHQS tỉnh Tây Ninh, Ban CHQS huyện Tân Biên đã kết luận quân nhân Lâm Văn Mạnh là người Việt Nam (nhưng không nói rõ có quốc tịch Việt Nam hay không).

Trong khi Phòng Bảo vệ an ninh- Cục Chính trị Quân khu 7 trả lời, theo hồ sơ, tài liệu đang lưu trữ tại cơ quan, không phát hiện trường hợp có liên quan đến ông Lâm Văn Mạnh, nên không có cơ sở để kết luận ông Mạnh là người có quốc tịch Campuchia hay Việt Nam thì Phòng Chính sách Quân khu 7 lại xác nhận có quản lý danh sách liệt sĩ Lâm Văn Mạnh.

Cụ thể, ngày 4.11.2011, Phòng Chính sách thuộc Cục Chính trị Quân khu 7 có văn bản xác nhận, nội dung nguyên văn như sau: “Phòng Chính sách - Cục Chính trị Quân khu 7 có quản lý danh sách liệt sĩ Lâm Văn Mạnh, quê quán Phờ Sốp, Phờ Chớp, Cần Ché, Campuchia; nhập ngũ tháng 5.1970; chức vụ A phó, đơn vị e207, hy sinh ngày 1.6.1972 trong trường hợp chiến đấu tại Xầm Long; họ tên cha: Lâm Văn Keng. Phòng Chính sách - Cục Chính trị Quân khu 7 xin xác nhận để các cơ quan chức năng xem xét”.

Đi tìm nhân chứng

Trường hợp Lâm Văn Mạnh còn ít nhất 3 nhân chứng. Với sự thận trọng cần thiết, chúng tôi cho rằng đủ độ tin cậy để làm sáng tỏ thân phận người lính Lâm Văn Mạnh.

Người thứ nhất là ông Lê Văn Phải- từng giữ chức Chủ tịch UBND xã Thạnh Bình, huyện Tân Biên từ năm 1981 đến năm 2004. Ông Phải kể rằng, ông nhập ngũ tháng 2.1970, trước ông Mạnh khoảng 3 tháng và hai người thuộc hai đơn vị khác nhau.

“Nhận được tin Mạnh hy sinh, tôi đã rất đau đớn, ba anh em chơi với nhau giờ chỉ còn hai”- ông Phải nhớ lại (thời điểm năm 2011, lúc Báo Tây Ninh đăng bài đầu tiên về câu chuyện này). Theo ông Phải, việc ghi quê quán Campuchia có thể là sơ suất khi lập hồ sơ. “Ghi nơi sinh Campuchia mới đúng, còn nói quê quán Campuchia là sai”- ông Phải nói.

Nhân chứng thứ hai là ông Lê Minh Quý- em ruột ông Phải. Hiện tại, ông Quý định cư tại TP. Hồ Chí Minh. Trao đổi qua điện thoại, ông Quý cho biết, sau khi anh trai ông- Lê Văn Phải nhập ngũ, ba tháng sau đến lượt ông và Lâm Văn Mạnh lên đường (tại Campuchia, hai nhà ở gần nhau). Ông Quý và Lâm Văn Mạnh được điều về hai đơn vị khác nhau.

Được một thời gian, ông Quý được đơn vị bạn báo tin ông Mạnh đã hy sinh. “Lúc đó tình hình chiến sự ác liệt, tôi không qua thăm viếng bạn được. Năm 1973, tôi liên lạc được với đơn vị của Mạnh và biết chính xác nó đã hy sinh”- ông Quý nói.

Theo ông Quý, ông Mạnh là người Việt Nam, vì hồi đó ở Campuchia có Hội Việt kiều yêu nước, những người phụ nữ Việt Nam có con tham gia kháng chiến được gọi là Hội Bà mẹ Việt kiều yêu nước.

Cũng có thể xem ông Lâm Văn Ngỡi, anh ruột Lâm Văn Mạnh là một nhân chứng quan trọng. Trong một lần đến thăm công trình đền liệt sĩ Việt kiều Campuchia tại Khu di tích lịch sử Trung ương Cục miền Nam (xã Tân Lập, huyện Tân Biên), ông nhìn thấy tên của em trai mình được khắc trên bia.

Bài 4: “Lịch sử sang xuân, anh vào trận cuối cùng”

Hồ sơ quân nhân Nguyễn Văn Thức đầy đủ hơn, có giấy báo tử, có nhân chứng xác nhận nhưng đến nay vẫn chưa được công nhận liệt sĩ, một phần cũng liên quan đến quê quán, quốc tịch.

Chị Nguyễn Thị Dung và ông Phạm Văn Quynh thắp hương tại ngôi mộ được cho là của liệt sĩ Nguyễn Văn Thức.

So với ba trường hợp trong các bài viết trước, hồ sơ quân nhân Nguyễn Văn Thức đầy đủ hơn, có giấy báo tử, có nhân chứng xác nhận nhưng đến nay vẫn chưa được công nhận liệt sĩ, một phần cũng liên quan đến quê quán, quốc tịch. Người chiến sĩ này hy sinh đúng ngày 30.4.1975, trận cuối cùng, trước bình minh của lịch sử.

Bốn người đi, hai người về

“Năm 1970, hai người anh trai của tôi tham gia kháng chiến. Sau đó, cả hai anh đều hy sinh. Một người có giấy báo tử của đơn vị, người còn lại không có giấy tờ gì, chỉ nghe tin là đã hy sinh tại một địa danh có tên gọi là Quảng Lợi”- chị Nguyễn Thị Dung, hiện ngụ huyện Tân Biên mở đầu câu chuyện về hai người anh của mình.

Chị Dung cho biết, quê gốc của gia đình ở Hà Nội. Do những biến động của thời cuộc, của lịch sử đất nước, cha mẹ chị sang Campuchia sinh sống từ rất lâu. Nơi gia đình chị cư trú, cộng đồng người gốc Việt rất đông. Những năm 70 của thế kỷ XX, gia đình chị trở thành địa chỉ hỗ trợ cho cán bộ, chiến sĩ tham gia kháng chiến.

Bà Nguyễn Thị Chi- mẹ chị Dung là người tiếp tế, nuôi quân, giúp đỡ cán bộ của cách mạng. Năm 1969, tại đất nước Chùa Tháp, hai người chị gái của chị Dung vào quân đội, hoạt động trong ngành Quân y. Phát hiện gia đình nhà bà Chi có hai người con gái theo “Việt cộng”, lực lượng thù địch tới nhà lục soát, dò xét, tra khảo và yêu cầu khai báo. Do không chịu khai báo, cha chị Dung bị quân địch dùng báng súng đánh trọng thương, rồi mất.

Sau khi cha chết, năm 1970, hai người anh trai của chị Dung tên là Nguyễn Văn Thức (thứ 6 trong gia đình) và Nguyễn Văn Bảy (thứ 7 trong gia đình) cũng gia nhập đội quân kháng chiến. Trước khi tiễn hai con trai theo cách mạng, bà Chi đã tận dụng tất cả các loại vải, chăn màn để may hàng chục cái ba lô không chỉ cho con mình đem theo và cho cả nam và nữ ở gần đó.

Khoảng năm 1971-1972, khu vực nơi gia đình chị sinh sống bị ném bom dữ dội. Chị cũng bị thương trong một trận bom. Tình hình lúc đó hỗn loạn đến mức, sau trận bom ấy, chị Dung và mẹ lạc mất nhau. Chị được bộ đội đưa vào chữa trị tại một cơ sở quân y có tên gọi là K53 (nay là Bệnh viện 175 của Bộ Quốc phòng). Tại đây, chị Dung may mắn gặp được người chị gái của mình.

Sau ngày 30.4.1975, chị Dung được chị gái cùng đơn vị đưa về TP. Hồ Chí Minh. Lúc này, mẹ con chị Dung hoàn toàn mất liên lạc với nhau. Mãi sau, mấy chị em mới biết mẹ mình cùng một số người thân được tổ chức cách mạng đưa về Việt Nam sống tại tỉnh Bình Dương. Sinh sống tại Việt Nam một thời gian, gia đình chị Dung nhận tin báo anh Thức và anh Bảy đã hy sinh.

Chứng kiến và trải qua nhiều đau thương, mất mát của gia đình, bà Chi phát bệnh rồi bỏ nhà đi lang thang. Những người con còn lại toả ra đi tìm mẹ nhưng không thấy. Mãi sau này, mấy chị em chị Dung tìm thấy bà Chi trong ngôi chùa Vĩnh Nghiêm. Lúc này, đôi mắt của bà Chi đã mù loà…

Theo lời chị Dung, từ khi hai anh trai tham gia cách mạng, gia đình không nhận được tin tức nào. Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, những người trong gia đình mới nhận được tin rằng cả hai anh đều ở cùng một đơn vị có tên gọi Đoàn 180 thuộc Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Căn cứ Trung ương Cục miền Nam tại huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

Phải rất lâu sau ngày hoà bình lập lại, người chị của chị Dung công tác tại Bệnh viện 175 nhận được thông tin, thi hài của anh Thức được an táng tại một địa điểm thuộc tỉnh Long An. Mấy chị em lập tức xuống đó tìm thì được báo tin, ngôi mộ này đã được Bộ Công an chuyển về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Tân Biên.

Cả nhà chị Dung đến nghĩa trang và tìm thấy đúng ngôi mộ mang tên anh mình nhưng lại mang họ Lê, không phải họ Nguyễn. Chị Dung tìm hiểu thì được biết, khi cất bốc ngôi mộ này, trên bia chỉ ghi có mỗi cái tên người mất, không có họ; trong khi đó, người cất bốc là họ Lê.

Người này làm một động tác có tính tâm linh và xin người đã khuất rằng, nếu đồng ý thì mang họ Lê luôn. Kết quả, ngôi mộ của anh Thức hiện nay ở nghĩa trang Tân Biên mang họ Lê. Tuy nhiên, chị Dung cũng nói rằng, chị không chắc chắn người nằm dưới mộ là anh trai mình. Mặc dù vậy, hằng năm vào ngày 27.7 hay ngày lễ, tết, chị đều ra thắp hương và coi đó là anh mình.

Về phần anh Nguyễn Văn Bảy, chị Dung cho biết, gia đình chỉ biết tin rằng anh đã hy sinh tại một địa danh có tên là Quảng Lợi, không rõ thuộc tỉnh, thành phố nào hiện nay, ngoài ra không có bất kỳ tin tức, manh mối gì. Gần đây nhất, chị Dung có tin anh Bảy hy sinh tại tỉnh Bình Phước.

Bộ Tư lệnh báo tin…

Chị Dung kể, gia đình nhận được giấy báo tử của anh Thức và cũng chỉ mới nhận được cách nay khoảng 8 năm. Giấy báo tử của anh Thức ghi, nguyên văn: “Bộ Nội vụ, Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang, Tiểu đoàn II, số 49. Chúng tôi xin kinh báo đến bà Nguyễn Thị Chi ở 18, Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một.

Là cha mẹ ruột và thân nhân đồng chí Nguyễn Văn Thức, tự là Nguyễn Văn Hải, nhập ngũ năm 1970, Tiểu đội phó thuộc đơn vị C2 - D2. Đã hy sinh trong trận chiến đấu ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Mỹ Hạnh - Hậu Nghĩa - Long An.

Tập thể và đồng đội chúng tôi vô cùng thương tiếc đồng chí và sẽ tổ chức nhiều đợt chiến đấu, tiêu diệt nhiều địch để trả thù cho đồng chí và gia đình. Nay chúng tôi chính thức báo tin đến gia đình và gửi lời chia buồn đến gia đình. Kính gửi: gia đình để biết ơn; chính quyền địa phương để được công nhận gia đình liệt sĩ. Ngày 21.7.1976, Tiểu đoàn II” (chữ mờ, không đọc được tên người ký- PV).

Hiện tại, chị Dung còn giữ được hai tấm ảnh, một của anh Thức, một của anh Bảy. Trong hai tấm này, chị Dung cho biết, có một tấm ảnh của anh Thức chụp tại địa điểm nay là khu vực Xa Mát, xã Tân Lập, huyện Tân Biên.

Trường hợp của anh Thức, anh Bảy vẫn còn nhiều nhân chứng - những người cùng thời sống bên Campuchia. Một trong số đó là ông Phạm Văn Quynh, sinh năm 1947, nguyên Trưởng Ban Dân vận, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện Tân Biên. Trong giấy xác nhận, ông Quynh viết: “Năm 1970, tôi là Bí thư chi bộ đồn điền cao su Bến Két, trực thuộc Đảng bộ Việt kiều tỉnh Kongpongcham, Campuchia.

Tôi xin chứng nhận đồng chí Nguyễn Văn Thức, sinh năm 1953, nhập ngũ năm 1970, thuộc đơn vị C2 - D2 - Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang… Đồng chí Nguyễn Văn Thức hy sinh ngày 30.4.1975, có giấy báo tử của đơn vị nhưng bị thất lạc. Nhà bà Nguyễn Thị Chi có bốn người con tham gia quân đội, gồm Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Văn Thức và Nguyễn Văn Bảy. Chị Nguyễn Thị Dung là em ruột đồng chí Nguyễn Văn Thức. Tôi xin cam đoan những lời khai trên đây là đúng sự thật”.

Trao đổi thêm, ông Quynh cho biết, thời điểm đó, tại Campuchia, đồn điền cao su Bến Két có khoảng 80% thanh niên về miền Nam chiến đấu, phần lớn lực lượng này gia nhập Đoàn 180- Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Trung ương Cục miền Nam. Lúc còn sống ở Campuchia, ông Quynh và ông Thức có biết nhau, vì hai gia đình là hàng xóm.

Theo ông Quynh, không chỉ ông biết gia đình anh Thức, tại Tân Biên còn một số nhân chứng khác, những nhân chứng này đều tham gia kháng chiến, sau năm 1975 tham gia xây dựng chính quyền mới. Ông Quynh cho rằng, nếu yêu cầu chính quyền địa phương (tại Campuchia) xác nhận thân nhân liệt sĩ là không thể thực hiện được, do những biến cố lịch sử, nước bạn đã nhiều lần thay đổi chính quyền.

Nhân chứng thứ hai viết giấy xác nhận cho anh Thức là ông Trần Văn Thanh- nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Tân Biên. Trong giấy xác nhận, ông Thanh cam kết, bà Nguyễn Thị Dung là em ruột của anh Nguyễn Văn Thức (hy sinh, có giấy báo tử). Sau năm 1973, gia đình chị Dung được đưa về sống tại vùng giải phóng ở miền Nam (huyện Tân Biên).

Cách nay vài tháng, theo yêu cầu, chị Dung đã nộp toàn bộ hồ sơ (kể cả giấy báo tử gốc) cho Ban Chỉ huy Quân sự Tân Biên. Tháng 7.2023, lãnh đạo cơ quan này cho biết đã chuyển hồ sơ về Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh. Theo quy trình, tỉnh chuyển về Quân khu 7. Sau đó, tiếp tục chuyển ra Bộ Quốc phòng…

Năm 2013, trong đợt tổng rà soát người có công với cách mạng trên toàn quốc, tại Tây Ninh, có nhiều trường hợp quân nhân thuộc dạng mất tin, mất tích trong chiến tranh, có người có giấy báo tử, có người không, nhưng điểm chung là, những người này không có tên trong danh sách rà soát.

Bài cuối: để không còn “câu đợi câu chờ” 

Trong loạt bài vừa qua, việc xác minh, làm rõ thân phận của quân nhân không hề đơn giản. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật (mới nhất), một số trường hợp của các bài viết trước, có thể có cơ sở để giải quyết.

Bí thư Tỉnh uỷ Phạm Viết Thanh và Bộ trưởng Đào Ngọc Dung thắp hương cho liệt sĩ tại TP. Tây Ninh (ảnh chụp 21.2.2020)

Điều kiện công nhận liệt sĩ

Ngày 9.2.2020, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 ưu đãi người có công với cách mạng. Điều 14 của Pháp lệnh quy định điều kiện công nhận liệt sĩ: Người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân thì được cơ quan có thẩm quyền xem xét công nhận là liệt sĩ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; Làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong địa bàn địch chiếm đóng, địa bàn có chiến sự, địa bàn tiếp giáp vùng địch chiếm đóng; Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch.

Hoạt động hoặc tham gia hoạt động cách mạng, kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục mà hy sinh.

Làm nghĩa vụ quốc tế; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, diễn tập hoặc làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm; do ốm đau, tai nạn không thể cứu chữa kịp thời khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn biên giới, trên biển, hải đảo có điều kiện đặc biệt khó khăn theo danh mục do Chính phủ quy định; mất tích trong trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, i và k khoản này và được cơ quan có thẩm quyền kết luận không phản bội, đầu hàng, chiêu hồi, đào ngũ.

Sau khi Uỷ ban Thường vụ ban hành Pháp lệnh, ngày 30.12.2021, Chính phủ ban hành Nghị định 131 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Nghị định 131 có nhiều nội dung quy định cụ thể để công nhận liệt sĩ nhưng chỉ xin dẫn ra điều này: "Trực tiếp phục vụ chiến đấu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh được xác định là thực hiện các nhiệm vụ trong lúc trận đánh đang diễn ra hoặc trong khi địch đang bắn phá: cứu thương, tải thương, tải đạn, đảm bảo thông tin liên lạc, bảo vệ hàng hoá và các trường hợp đảm bảo chiến đấu. Điểm m, Điều 14 của Pháp lệnh 02 ghi: “Mất tích trong trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, i và k khoản này và được cơ quan có thẩm quyền kết luận không phản bội, đầu hàng, chiêu hồi, đào ngũ”.

Đối chiếu quy định quan trọng này, bốn quân nhân Nguyễn Văn Thể, Phạm Văn Sum, Lâm Văn Mạnh và Nguyễn Văn Thức, hiện tại, chưa ai trong số đó bị kết luận “phản bội, đầu hàng, chiêu hồi, đào ngũ”. Trừ trường hợp Phạm Văn Sum (có nhân chứng nhưng không có hồ sơ), ba người còn lại đều có hồ sơ và nhân chứng.

Trong ba trường hợp này, quân nhân Nguyễn Văn Thể có hồ sơ, nhà cửa, cha mẹ ở huyện Châu Thành. Hai quân nhân Lâm Văn Mạnh và Nguyễn Văn Thức- theo cơ quan chức năng, vướng ở chỗ xác định quốc tịch. Nhóm phóng viên không đủ thông tin, kiến thức và thẩm quyền để khẳng định họ có quốc tịch Campuchia hay không.

Nhưng có một sự thật, người thân (còn sống) cho biết, không ai trong số họ có quốc tịch Campuchia. Một luận cứ không thể bỏ qua: bạn bè, hàng xóm của hai quân nhân Lâm Văn Mạnh, Nguyễn Văn Thức đều sinh ra ở Campuchia, lớn lên tham gia cách mạng, gia nhập Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang (của Việt Nam).

Đất nước hoà bình, họ trở về Việt Nam (Tây Ninh) công tác trong chính quyền. Một số người còn giữ chức vụ quan trọng ở địa phương, tất nhiên họ đều là đảng viên. Nếu những người này mang quốc tịch nước ngoài, làm sao họ có thể giữ chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền của nước ta?

Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung với tờ báo Tây Ninh đăng bài về quân nhân Lâm Văn Mạnh (ảnh chụp ngày 21.2.2020)

Đôi lời

So với Thông tư 28 năm 2013, Pháp lệnh 02 năm 2020 và Nghị định 131 năm 2021 quy định rõ hơn, chi tiết hơn nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc giải quyết hồ sơ tồn đọng hoặc chưa được lập hồ sơ đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Tại lễ trao thưởng Giải báo chí Diên Hồng lần thứ nhất (tổ chức tháng 6.2023), một tác phẩm đoạt giải A liên quan đến câu chuyện tìm lại danh dự cho một người lính hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.

Chuyện kể, người lính này hy sinh nhưng trong giấy báo tử gửi về cho gia đình lại ghi quân nhân bỏ vị trí chiến đấu, sau đó bị địch bắn chết. Hàng chục năm trời, vợ, cha mẹ, người thân của gia đình người lính vô cùng đau khổ vì tai tiếng có chồng, con hèn nhát, bỏ chạy. Nhóm phóng viên của một tờ báo đã dày công tìm gặp nhiều nhân chứng để làm sáng tỏ câu chuyện. Dù đã cố hết sức nhằm tìm ra sự thật nhưng nhóm phóng viên không thể làm gì hơn, ngoài những điều đã biết.

Sự việc chỉ được làm sáng tỏ khi nhóm phóng viên gửi toàn bộ hồ sơ của quân nhân lên Ban Dân nguyện của Quốc hội. Sau đó, Ban Dân nguyện "vào cuộc" xác minh, tìm gặp nhiều nhân chứng, kết hợp hồ sơ còn lại. Kết quả, người lính này hy sinh trong lúc đấu pháo với quân xâm lược chứ không phải bỏ chạy và bị địch bắn chết như nội dung ghi trong giấy báo tử.

Tại lễ trao giải được truyền hình trực tiếp, người thân của người lính kia không kiềm được nước mắt, vì cuối cùng, câu chuyện của chồng, con họ đã được trả lại đúng sự thật. Kể ra câu chuyện trên đây để hiểu thêm, việc giải quyết chế độ, chính sách đối với thương binh, liệt sĩ sau chiến tranh không hề đơn giản. Nhưng, khó không có nghĩa không làm được.

Bốn quân nhân trong loạt bài trên- có hai người sinh ra, lớn lên ở Việt Nam, hai người sinh ra, lớn lên ở Campuchia nhưng điểm chung của họ là tham gia cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trước khi hy sinh hoặc mất tin, mất tích, họ đều có tên tuổi, đơn vị công tác, có trường hợp còn được ghi rất rõ hy sinh ở đâu, lúc nào, trong trường hợp nào.

Bậc sinh thành của cả bốn quân nhân đã qua đời từ lâu, có người còn bị địch đánh chết trước khi con trai họ hy sinh (trường hợp người thân của quân nhân Nguyễn Văn Thức). Hiện nay, người thân của cả bốn quân nhân trong loạt bài chỉ còn anh, chị (đã lớn tuổi).

Trước khi khép lại loạt bài, mong rằng các cơ quan liên quan có động thái tích cực hơn, quan tâm đến không chỉ người đang sống mà cả những người đã mất, trong câu chuyện này. Sao cho những người, vì một nguyên do, tình huống nào đó, đã hy sinh vì nghĩa lớn được yên lòng, như Giáo sư Vũ Khiêu viết trên bia liệt sĩ Đồi 82, huyện Tân Biên: "Hiến thân cho nước: sống cũng vinh mà thác cũng vinh/ Hết dạ vì dân: mệnh chẳng thọ mà danh lại thọ".

Việt Đông - Hoàng Yến

Tác giả: Trần Đăng Khoa, BBT-ĐH

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

chuyển đổi số
Phóng sự ảnh
Biển đảo Việt Nam
Chính trị
thong bao noi bo
Giải báo chí
Bảo hiểm xã hội
Liên kết website
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập90
  • Máy chủ tìm kiếm84
  • Khách viếng thăm6
  • Hôm nay6,750
  • Tháng hiện tại389,507
  • Tổng lượt truy cập3,473,801
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây