Từ năm 2016 đến năm 2022, công tác hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người nghèo trên địa bàn tỉnh thực hiện theo Nghị quyết số 46/20215/NQ-HĐND ngày 17/9/2015 của HĐND tỉnh đã hỗ trợ cho hơn 8 ngàn lượt bệnh nhân với số tiền hơn 26 tỷ đồng đã giúp người nghèo trong tỉnh vượt qua khó khăn bệnh tật, tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư, người dân tin tưởng vào chính sách hỗ trợ, thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Nhà nước đối với công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân nhất là những gia đình nghèo, gặp khó khăn trong cuộc sống.
Người dân đăng ký khám bệnh tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Ảnh minh hoạ.
Với mục đích chia sẻ khó khăn cùng người bệnh thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống ở xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn, người thuộc diện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và người đang hưởng chế độ trợ cấp nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội, bị mắc bệnh hiểm nghèo. Theo dự thảo Nghị quyết, Sở Y tế đề xuất 04 nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách của tỉnh và 03 nội dung hỗ trợ (tiền ăn, tiền đi lại và một phần chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
Về phạm vi áp dụng, Sở Y tế đề xuất danh mục bệnh được hỗ trợ là 09 bệnh gồm: Ung thư, nhồi máu cơ tim lần đầu, phẫu thuật động mạch vành, phẫu thuật thay van tim, phẫu thuật động mạch chủ, đột quỵ, chạy thận nhân tạo, bỏng nặng, chấn thương sọ não có phẫu thuật (dựa trên danh mục 42 bệnh hiểm nghèo theo phụ lục IV Nghị định 134/2016/NĐ-CP của Chính phủ). Với 09 nhóm bệnh kể trên, khi các nhóm đối tượng điều trị ở cơ sơ khám bệnh, chữa bệnh Nhà nước sẽ được hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh; riêng đối với bệnh nhân suy thận mạn có chạy thận nhân tạo được áp dụng chính sách này khi vào điều trị ở cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, do tình hình thiếu máy chạy thận nhân tạo của cơ sở y tế công lập, chưa đáp ứng đủ nhu cầu điều trị bệnh.
Tuy nhiên, để làm rõ phạm vi áp dụng, có ý kiến đề nghị dự thảo Nghị quyết cần quy định phạm vi không gian, thời gian áp dụng chính sách.
Về đối tượng áp dụng, Dự thảo Nghị quyết đưa ra 04 nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách gồm: (1) Người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định hiện hành của Chính phủ, (2) Người thuộc hộ nghèo theo chuẩn nghèo của tỉnh; (3) Đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn theo quy định của Chính phủ; (4) Người thuộc diện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật và người đang hưởng chế độ trợ cấp nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội. Việc đưa ra các nhóm đối tượng của chính sách dựa trên cơ sở kế thừa chính sách trước đó của tỉnh (theo Nghị quyết số 46/2015/NQ-HĐND); đồng thời, trên cơ sở đặc thù của địa phương, đề xuất nhóm “Người thuộc hộ nghèo theo chuẩn nghèo của tỉnh” để hỗ trợ.
Các ý kiến thể hiện sự đồng tình cao về đối tượng áp dụng. Tuy nhiên, đối với nhóm đối tượng “Đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn theo quy định của Chính phủ”, đề nghị đơn vị soạn thảo xem xét, quy định đối tượng chủ thể là “Người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa bàn các xã khu vực II, khu vực III...” để phù hợp một số quy định khác của pháp luật (điểm c, khoản 2, Điều 1 Nghị định số 75/2023/NĐ-CP về bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP). Về các chính sách hỗ trợ, mục tiêu chung của chính sách là hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại và một phần chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo mắc bệnh hiểm nghèo vào điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhằm giảm bớt chi phí trong chăm sóc sức khỏe nhân dân giúp họ vượt qua gánh nặng bệnh tật góp phần ổn định cuộc sống đối với các gia đình bệnh nhân nghèo…
Tiến Hưng
Tác giả: Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy, Tiến Hưng
Ý kiến bạn đọc